Cùng với Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ (1778- 1858) là một trong hai thi sĩ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX. Ông là người ưa tự do, phóng túng, có cá tính có bản lĩnh, ngông ngạo, đặc biệt ông rất yêu nước thương dân và có nhiều đóng góp cho đất nước. Các sáng tác chủ yếu của ông là chữ Nôm với nhiều thể loại thơ, phú, câu đối, hát nói, riêng thơ Đường luật có khoảng 150 bài. Các sáng tác tập trung vào ba chủ đề chính: chí nam nhi, triết lí sống nhàn, thế thái nhân tình đen bạc. Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên có công đưa hát nói trở thành thể loại văn học dân tộc. “Bài ca ngất ngưởng” được viết sau năm 1848, khi tác giả cáo quan về ở ẩn. Bài thơ khẳng định ngất ngưởng là cách Nguyễn Công Trứ thể hiện bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm mà Toplist đã tổng hợp trong bài viết sau để thấy rõ hơn điều đó.
Nội Dung Chính Của Bài Viết
Bài văn phân tích tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” số 9
Nguyễn Công Trứ là người có tài, hoạn lộ gặp nhiều thăng trầm. Ông để lại cho hậu thế khoảng 150 tác phẩm trên nhiều thể loại nhưng thành công nhất ở thể loại hát nói. Bài ca ngất ngưởng là một trong những tác phẩm hát nói xuất sắc nhất của ông thể hiện cá tính tài tử của bản thân.
Bài thơ được sáng tác trong thời gian ông cáo quan về ở ẩn tại quê nhà. Với thể loại hát nói tự do, phóng khoáng rất phù hợp để thể hiện cá tính, con người của Nguyễn Công Trứ. Văn bản thể hiện rõ lối sống ngất ngưởng của ông khi làm quan cũng như khi cáo quan về ở ẩn. Theo quan điểm của Nguyễn Công Trứ, ngất ngưởng là sự thể hiện của tính cách cao ngạo, thoát ra ngoài khuôn khổ xã hội phong kiến chuyên chế. Đây đồng thời cũng là phong sống có bản lĩnh cá nhân, khác đời và hơn đời.
Sáu câu thơ đầu thể hiện lối sống ngất ngưởng khi ông đang làm quan. Trước hết ở ý thức trách nhiệm của ông trước cuộc đời và lòng kiêu hãnh tự tin về bản thân: Vũ trụ nội mạc phi phận sự. Ông khẳng định mọi việc trong trời đất này đều thuộc trách nhiệm của ông. Lời nói đó cho thấy Nguyễn Công Trứ dám khẳng định ý nghĩa, vai trò của bản thân đối với đất nước. Thể hiện ở quan niệm về việc làm quan rất khác người – vừa là danh lại vừa là nợ: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Là danh bởi đây chính là cơ hội để ông chứng tỏ bản thân, chứng tỏ tài năng hơn người, khác người của mình, dùng tài năng đó để cống hiến, phục vụ cho đất nước. Nhưng lại là nợ bởi làm quan sẽ bị ràng buộc bởi trách nhiệm, ông buộc phải chấp nhận cuộc sống gò bó, mất tự do khi ở chốn quan trường. Vốn là người mang trong mình bản tính tự do, tự tại khi bị ép vào khuôn phép cũng là một điều khó khăn đối với Nguyễn Công Trứ.
Tuy nhiên vì ý thức trách nhiệm và niềm kiêu hãnh tự tin nên Nguyễn Công Trứ đã gạt đi thú vui thích của bản thân, theo đuổi con đường khoa cử, đỗ đạt ra làm quan để thực hiện hoài bão giúp nước, giúp đời. Hoài bão to lớn, cao đẹp ấy là hoài bão của biết bao người quân tử trong xã hội lúc bấy giờ. Trong những năm cống hiến cho đời, ông đã làm được nhiều điều và ông tự hào về những điều mình đã làm được, mình đã cống hiến:
Khi thủ khoa, khi tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình tây cờ Đại Tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.
Trong cuộc đời làm quan, Nguyễn Công Trứ đã trải qua nhiều chức quan khác nhau: tham tán, tổng đốc Đông, bình tây đại tướng,… đều là những chức vụ quan trọng trong triều đình. Điều đó cho thấy tài năng hơn người của ông. Đồng thời đã cho thấy ý thức trách nhiệm cũng như thái độ tự tin, kiêu hãnh của Nguyễn Công Trữ trước những thành quả mình đạt được.
Những cống hiến ấy không chỉ thể hiện tài năng hơn đời mà còn thể hiện tấm lòng ưu dân ái quốc của ông. Khi đang ở đỉnh cao ở vinh quang, năm 70 tuổi Nguyễn Công Trứ xin cáo quan về quê mãi cho đến lần thứ mười hai ông mới được chấp nhận. Về quê ông hưởng thụ cuộc sống tự do, tự tại, ngao du sơn thủy.
Hành động của ông khi cáo quan về quê cũng thể hiện tư thế ngất ngưởng, khác người: Đô môn giải tổ chi niên/ Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. Hành động đó như một sự thách thức đối với hệ thống quan lại đương thời, đồng thời cũng khẳng định thái độ không còn luyến tiếc với hư vinh mà triều đình đem lại.
Không chỉ vậy cái ngất ngưởng của ông còn thể hiện trong nhu cầu, sở thích cá nhân, điều mà rất ít khi các nhà thơ khác bộ lộ trực tiếp: nơi ở như chốn thần tiên: “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”; du ngoạn cảnh chùa chiền: “Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi/ Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì/ Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” hay thưởng thức thu vui hát ả đào: “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng/ Không Phật không tiên, không vướng tục”. Ngoài ra nó còn thể hiện trong thái độ sống an nhiên, tự tại, không quan tâm đến những lời khen chê của dư luận: “Được mất dương dương người thái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong”.
Ông kiêu hãnh, tự hào với lối sống ngất ngưởng của mình: Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/ Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung. Nguyễn Công Trứ tự xếp mình ngang hàng với những người tài năng, nhân cách lỗi lạc. Khẳng định sự khác đời và hơn đời của phong cách sống ngất ngưởng: Trong triều ai ngất ngưởng như ông?
Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ là thái độ tự tin và bằng lòng của Nguyên Công Trứ về phong cách sống có bản lĩnh mà ông suốt đời tâm niệm. Đây là lối sống có trách nhiệm với đời, cần phải tận lực cống hiến và cống hiến có kết quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng cần phải biết hưởng thụ những niềm vui mà cuộc sống dành cho mình. Đó còn là lối sống trung thực, dám là chính mình, vượt ra khỏi khuôn mẫu khắc kỉ phục lễ chật chội, giả dối.
Với thể thơ hát nói tự do, phóng khoáng đã giúp Nguyễn Công Trứ thể hiện thành công lối sống ngất ngưởng của bản thân. Lối sống đó thể hiện cá tính tự do, phóng khoáng, bản lĩnh sống lành mạnh, có sự phá cách về quan niệm sống, vượt qua những khe khắt, giáo điều của lễ giáo phong kiến.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” số 7
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) biệt hiệu là Hi Văn, một danh tướng triều Nguyễn, văn võ toàn tài. về sự nghiệp văn chương, ông để lại khoảng 150 bài thơ, câu đối, bài “Hàn nho phong vị phú ” là một kiệt tác. Với những bài thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ có giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng: “Chí nam nhi”, “Chí khí anh hùng”, “Nợ tang bồng”… trong đó, độc đáo nhất là “Bài ca ngất ngưởng”.
Vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” thật đặc sắc và rất thú vị. Đó là vẻ đẹp của một nhà nho giàu cá tính, dám đem tài năng thi thố với đời, dám hành động cho thoả chí nam nhi, đồng thời cũng dám hành lạc biểu lộ bản ngã của một khách tài tử. Vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” còn là chất thơ, chất nhạc in đậm dấu ấn của một tao nhân mặc khách, một tài tử mang cốt cách anh hùng.
Thơ trung đại vốn phi ngã, nhưng “Bài ca ngất ngưởng” đã thể hiện cái tôi một cách đàng hoàng với tất cả niềm tự hào hiếm thấy. Một cách xưng danh thật hào hùng. Trong xã hội phong kiến đã mấy ai dám nói như Nguyễn Công Trứ?
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Vân tài bộ đã vào lồng.”
Kẻ nam nhi dám đem “tài bộ ” ra thi thố với thiên hạ, làm tròn trách nhiệm với đời. Phải ngất ngưởng, phải sống khác người, vì đã có công danh, về cử nghiệp đã đỗ thủ khoa. Về binh nghiệp đã làm Tham tán. về hoạn lộ đã làm Tổng đốc Đông. Có tài thao lược mới có thể ngất ngưởng, mới dám sống ngất ngưởng:
“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”.
Có thể hiểu ngất ngưởng vì hơn đời, hơn người, do có “tài bộ”. Con đường công danh như được trải dài và mở rộng. Ông Hi Văn đang sống lại những tháng ngày oanh liệt:
“Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.
Chữ “khi” được điệp lại bốn lần, đan xen với chữ “lúc”, đã nêu bật tính thời gian và con đường công danh của một kẻ sĩ anh hùng được mở ra với bao tự hào, kiêu hãnh. Giọng thơ mạnh mẽ hào hùng thể hiện cốt cách của một đấng nam nhi tài ba lỗi lạc. Con người ấy đã sống đẹp hơn bao giờ hết:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”.
(Nợ tang bồng)
Bức chân dung tự họa của ông Hi Văn là một trong những vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” mà ta cảm nhận được. Giữa triều đình, ông Hi Văn đã sống hết mình, đem tài bộ ra thi thố với thiên hạ “đã nên tay ngất ngưởng”. Lúc trả áo mũ về trí sĩ, ông Hi Văn lại chơi hết mình: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”. Chiếc mo cau đeo sau đuôi con bò cái như để che miệng thế gian, như để giễu đời. Thật ung dung và thảnh thơi giữa chốn lâm tuyền. Như có một sự hoá thân kì lạ:
“Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
Nhìn thấy “dạng từ bi” đó của ông Hi Văn, làm sao Bụt chẳng “nực cười” được? Mọi chuyện được mất, khen chê bỏ hết ngoài tai, “ông ngất ngưởng” chính là một khách tài tử, rất thanh cao. Các điệp ngữ (khi, không) làm cho nhịp thơ, điệu thơ, giọng thơ như nhún nhảy. Cũng là một nét đẹp của ông Hi Văn, cũng là một nét đẹp của “Bài ca ngất ngưởng”:
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.
Bức chân dung tự họa của “ông ngất ngưởng” đã hoàn chỉnh, vừa bề thế, vừa trang trọng. Sự thuỷ chung về “nghĩa vua tôi” là cái thần của bức chân dung tự họa ấy. Sao không tự hào được?
“Chẳng Trái, Nhạc cũng phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn dạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”.
Vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” đâu chỉ có thế. Còn là vẻ đẹp văn chương, vẻ đẹp của một bài thơ hát nói dôi khổ (hai khổ thơ). Ngôn từ thật biến hoá: khi là “tay ngất ngưởng” rồi lại “đeo ngất ngưởng trở thành “ông ngất ngưởng” rồi còn cất tiếng hỏi: ’Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”.
Câu thơ co duỗi biến hoá: sáu chữ, bảy chữ, tám chữ; sử dụng điệp ngữ thần tình, giọng thơ du dương, trầm bổng. Chất nhạc cũng làm nên vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng”. Nguyễn Công Trứ đã làm Dinh điền sứ tổ chức di dân lấn biển, lập nên hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình) đến nay vẫn được nhân dân hai miền quê ấy thờ cúng, đội ơn sâu.
Nguyễn Công Trứ đã trải qua nhiều thăng trầm trên con đường hoạn lộ, nhưng lúc nào ông cũng thể hiện một bản lĩnh đáng trọng và tự hào: “Lúc làm đại tướng, ta không thấy thế làm vinh; lúc làm lính thú, ta cũng không lấy thế làm nhục”. Nói về vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” là nói về vẻ đẹp của chí anh hùng, chí nam nhi là nói về vẻ đẹp ung dung thanh cao của một tao nhân mặc khách đã để lại nhiều bài thơ hát nói nổi tiếng.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” số 6
Nếu như thể “ngâm khúc thể hiện một con người cô đơn, đau xót đi tìm những giá trị của mình bị mất mát” thì hát nói “một thể thông dụng trong ca trù thể hiện một con người tài tử thoát vòng cương tỏa, thoát sáo, thoát tục lụy, danh lợi, nắm lấy phút vui hiện tại”.
Nhắc đến thể hát nói không thể không nhắc đến tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ bài thơ đem đến cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và thể loại của nó. Bài thơ thể hiện cái tôi ngông của tác giả, một phong cách sống khác đời vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến trên cơ sở ý thức về tài năng và giá trị của bản thân.
Nguyễn Công Trứ là một nhà Nho nghèo đã từng thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan xong con đường công danh ấy không được bằng phẳng, thăng trầm. Sáng tác của ông hầu hết là bằng chữ Nôm, thể loại ưa thích nhất của ông là hát nói bởi ông đã có điều kiện tham gia ca trù vốn khá phát triển ở làng Cổ Đạm gần làng ông. Đề tài và nội dung trong các bài thơ hát nói của ông rất đa dạng như: tình yêu, đồng tiền, chí làm trai, sự ăn chơi hưởng lạc….
“Bài ca ngất ngưởng” thuộc đề tài sự ăn chơi hưởng lạc, bài thơ được sáng tác 1848 là năm nhà thơ cáo quan về hưu, sống cuộc đời tự do, thoải mái. Điều đó được thể hiện rõ nét qua từ “ngất ngưởng”. Theo Nguyễn Đình Chú đó là “nhằm để diễn tả một tư thế, một thái độ, một tinh thần, một con người vươn lên trên thế tục, sống giữa mọi người mà dường như không nhìn thấy ai, đi giữa cuộc đời mà dường như chỉ biết có mình, một con người khác đời và bất chấp mọi người”.
Sáu câu thơ đầu là lời tự thuật về cuộc đời thi thố tài năng ở chốn quan trường của tác giả với những sự kiện tiêu biểu. Mở đầu bài thơ là một câu thơ chữ Hán thể hiện quan niệm, triết lí sống mà nhà thơ đã theo đuổi. Do cảm hứng phóng túng, làm chơi, buông thả nên hát nói được cấu tạo một cách đặc biệt. Nó pha trộn lời Hán với lời Việt. Hầu hết các bài đều có một câu chữ Hán là một câu dẫn ngữ nói một tư tưởng nào đó được sẵn đặt ở đầu câu.
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự” nghĩa là mọi việc trong khoảng trời đất đều là phận sự của ta. Cho thấy sự làm chủ của con người trong vũ trụ, con người với tinh thần nhập thế, trách nhiệm gánh vác việc đời. Ý thơ này đã được ông thể hiện nhiều lần trong những bài thơ khác nhau như: “Vũ trụ chức phận nội” việc trong vũ trụ là phận sự của ta hay “Vũ trụ giao ngô phận sự” mọi việc trong vũ trụ đều thuộc phận sự của ta.
Ông luôn xác định cho mình một lối sống tích cực, sống với đời và đóng góp cho đời. Ông đã chịu ảnh hưởng chí làm trai của Nho giáo và kế thừa tinh thần bậc tiền nhân như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm rồi Phan Bội Châu như “Sinh vi nam tử yếu hi kì/ Há để càn khôn tự chuyển di”…
Tiếp theo nhà thơ tự nói về mình điều hiếm thấy trong thơ văn trung đại. Bởi con người trong giai đoạn ấy cái tôi cá nhân bị lu mờ, ít thấy tác giả xuất hiện trực tiếp do người trung đại không coi mình là trung tâm mà chỉ là một bộ phận trong chỉnh thể lớn. Nhưng ở đây tác giả đã tự tin thể hiện cá tính, con người riêng của mình.
“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
…Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.
Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. “Tài bộ” là tài hoa. Ông tự khẳng định mình là một người “tài năng lỗi lạc xuất chúng” đã “vào lồng” tức ông coi việc làm quan trong triều bị giam hãm trong lồng gò bó, mất tự do. Nhà thơ hẳn phải là con người phóng khoáng, có chí tung hoành, không hám danh hám lợi nên mới tự tin bộc lộ bản thân. Ông liệt kê các học vị, các chức quan lớn mà mình đã nắm giữ. Với câu văn dài ngắn khác nhau, nhịp thơ linh hoạt cùng với cách sử dụng điệp từ “khi” và hệ thống từ Hán Việt đã thể hiện một cảm hứng tự hào, tự tin khẳng định cái tôi cá nhân của một con người tài năng.
Phần còn lại là sự giãi bày cách sống ngất ngưởng khác thường của thi sĩ. Lại một câu thơ chữ Hán xuất hiện “Đô môn giải tố chi niên” đánh dấu sự kiện chuyển biến trong cuộc đời nhà thơ với ý nghĩa cả câu: năm ở kinh đô cởi trả ấn để về hưu, sống một lối sống như mình mong muốn:
“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
…Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
Chỉ với bốn câu thơ mà đến hai lần từ “ngất ngưởng” xuất hiện phải chăng nhà thơ quá yêu thích lối sống ấy. Trong các câu thơ trên có sử dụng nghệ thuật đối ý tương phản. Đạc ngựa mà lại đeo cho bò vàng, tay kiếm cung mà nên dạng từ bi nhắc đến đao kiếm là con người ta nghĩ ngay đến binh đao, chém giết làm sao có thể từ bi, đi vãng cảnh chùa để thoát tục mà “Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì”… chính sự đối lập gay gắt trong nhân cách của nhà thơ tạo nên sự khác biệt của ông.
Nguyễn Công Trứ là người có công lớn với triều đình, với nhân dân từng giúp dân trị thủy, khai hoang và lập nhiều chiến công trong việc dẹp loạn các cuộc nổi dậy chống triều đình. Ý thức được tài năng của mình ông lựa chọn cho mình một phương thức sống, một cách sống khác người. Trước tiên ông nguyện một lòng phò vua giúp nước, cống hiến tài năng trí tuệ của mình “đem tất cả sở tồn làm sở dụng” (đem tất cả chí bình sinh của mình ra cống hiến cho đời) với trí nam nhi của mình:
“Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”
Sau khi đã hoàn thành trách trách nhiệm trên vai người trí sĩ yêu nước thương nòi, ông cho phép mình được hưởng thú tiêu dao, hành lạc với quan niệm “Cuộc đời hành lạc chơi đâu là lãi đấy”. Chính bởi vậy ông chẳng bận tâm đến chuyện được mất, khen chê ở trên đời, ông bỏ ngoài tai tất cả để toàn tâm tận hưởng thú vui của riêng mình:
“Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong”
Hai câu thơ tiếp theo với cách ngắt nhịp 2/2/2/2, 2/2/3 linh hoạt, dồn dập liệt kê các thú vui của tác giả, tạo cho câu thơ phong phú về âm điệu, nhạc điệu:
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không phật, không tiên, không vướng tục”
Điệp từ “khi” và ba từ “không” liên tiếp lặp lại cho thấy một tâm hồn tự do, phóng khoáng không vướng bận thế tục, không vướng việc đời, một phong thái ung dung, tự tại. Nguyễn Công Trứ đang tiêu dao tận hưởng những ngày tháng của một kẻ sĩ tài hoa, tài tử: “Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp/ Trong thú yên hà mặt tỉnh say”
Cuối cùng nhà thơ đúc kết lại toàn bộ cuộc đời mình bằng ba câu thơ với sự khẳng định chắc nịch tài năng và phẩm chất của bản thân:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”
Nhà thơ đã tự xếp mình ngang hàng với các vị danh tướng lỗi lạc của đời Hán, đời Tống bên Trung Hoa. Trái, Nhạc, Hàn, Phú là Trái Tuân, Hàn Phi, Hàn Kì, Phú Bật. Ông tự định vị, tự ý thức được tài đức của mình. Ông rong chơi cho thỏa chí của mình nhưng vẫn vẹn đạo vua tôi. Thật đúng như nhận xét của Trần Đình Sử về Nguyễn Công Trứ “Nhập thế tục mà không vương tục, rong chơi mà vẫn trọn nghĩa vua tôi”. Kết thúc bài hát tác giả tự xưng bằng một tiếng “ông” hào hùng. Cái tôi cá nhân được phô diễn cực độ, tự tin khẳng định trong triều chẳng có ai được như ông.
“Bài ca ngất ngưởng” với bút pháp nghệ thuật đặc sắc sử dụng các điệp từ, câu cảm thán làm cho ngữ điệu nói bộc lộ rõ, nó làm cho tính chủ thể của lời văn nhất quán và xuất hiện giọng điệu khẳng khái ngang tàn, ngạo nghễ, thách thức. Sử dụng tiếng thô, tiếng lóng trong sinh hoạt hàng ngày tạo ra giọng nói sống động pha tạp vừa thanh vừa tục. Trong một bài thơ tính cả nhan đề có đến năm lần nhà thơ dùng từ “ngất ngưởng” thể hiện cá tính ngông của ông.
Bài thơ đã khắc họa chân dung của cụ Nguyễn Công Trứ một con người tài ba, lỗi lạc vừa làm trọn phận bề tôi, vừa thỏa chí của bản thân mình. Bài thơ đã góp phần làm cho thể thơ hát nói được thể hiện đúng với cấu trúc, chức năng của mình.
Bài văn phân tích tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” số 10
Ngay lúc chưa có danh phận gì, Nguyễn Công Trứ đã từng tự hứa với mình : “Đã mang tiếng ở trong trời đất – Phải có danh gì với núi sông” (Đi thi tự vịnh). Chưa có rồi sẽ có, chỉ cần quyết tâm và nhất là cần tài năng, mà hai cái đó, Nguyễn Công Trứ thấy mình có đủ. Được hậu thuẫn bởi những thành công trong sự nghiệp, cùng với thời gian, niềm tự tin trong ông ngày càng được củng cố.
Ông đã ngất ngưởng và thấy mình có quyền ngất ngưởng – ngất ngưởng trong đời và cả trong thơ, ngất ngưởng từ lúc bạch diện thư sinh, lúc hoạn hải ba đào cho tới tận lúc đã ra ngoài vòng cương toả. Đối với ông, ngất ngưởng là một giá trị, một cách khẳng định giá trị. Thật tự nhiên khi ông có hẳn một bài thơ nói về sự ngất ngưởng, đặt ngất ngưởng lên bình diện ý thức, nghĩa là kể về nó, luận về nó một cách trực diện – ta đang nói về bài thơ hát nói vào hàng xuất sắc nhất của Nguyễn Công Trứ : Bài ca ngất ngưởng !
Cho đến nay, trong đời sống, từ ngất ngưởng đã được dùng, được hiểu theo các nghĩa chính: Thứ nhất là thế ngồi, thế tồn tại ở vị trí chênh vênh trên cao, lắc lư dễ ngã, dễ đổ. Thứ hai một cách sống, thái độ sống, một kiểu ứng xử có phần khác biệt, thậm chí thách thức với các chuẩn mực thông thường vốn được người đời chấp nhận.
Ớ bài thơ của Nguyễn Công Trứ, từ ngất ngưởng đã được dùng chủ yếu với nghĩa thứ hai, tức là nghĩa chỉ định một phạm trù thuộc tinh thần. Qua bốn lần xuất hiện ở những câu then chốt (câu cuối của mỗi khổ) và ở vị trí then chốt của câu (từ cuối cùng – trừ câu thứ 19, do mô hình vần của thể loại không cho phép), từ ngất ngưởng đã đảm nhiệm vai trò chính trong việc làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
Nhân vật trữ tình trong bài thơ gần như trùng khít với tác giả. Hoàn toàn có thể xem đây là một bài thơ tự vịnh bởi suốt cả tác phẩm, nhà thơ nói trực tiếp về mình, từ sự nghiệp có thể gọi là hiển hách đến cách sống chẳng giống ai và thái độ tự tôn, tự tại rất mực (thơ tự vịnh yêu cầu tác giả phải cho người ta thấy được một cách khái quát đặc điểm của bản thân người viết, khác với các loại thơ trữ tình khác chỉ quan tâm bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của tác giả về một vấn đề, đối tượng nào đó, còn việc “vẽ” mình chỉ là hệ quả gián tiếp của tất cả những điều trên).
Nhưng cách tự vịnh của Nguyễn Công Trứ cũng độc đáo khác người. Tác giả đã dùng nhiều từ, cụm từ khác nhau để gọi mình : ông, ông Hi Vãn tài bộ, ông ngất ngưởng, tay ngất ngưởng (cũng có thể kể thêm cụm từ phường Hàn, Phú). Mới đọc qua, người đọc dễ tưởng có một ai đó đang nói về Nguyễn Công Trứ, bởi những ông, những tay đã được dùng như các đại từ thuộc ngôi thứ ba. ở đây nhà thơ đã khách quan hoá bản thân, tách mình ra khỏi mình để xem xét mà không sợ “cái mình” ấy bị “nhỏ” đi. Phải là một kẻ rất tự tin mới làm nổi điều này.
Nhà thơ ý thức rất rõ rằng mình là một giá trị hiển nhiên giữa đời, không thể phủ nhận. Ông ngông nghênh đặt mình ngang hàng với những nhân vật lỗi lạc ngày xưa. Kết cấu câu chẳng… cũng {“Chẳng Trái, Nhục cũng phường Hàn, Phú”) thể hiện một thái độ tự đánh giá cao rất dứt khoát. Ta tưởng như nghe ông nói : Cái tay Nguyễn Công Trứ ấy, cũng được đấy chứ nhỉ !
Bài ca ngất ngưởng thuộc loại bài thơ hát nói dôi khổ gồm 19 câu. Đi vào khổ đầu tiên, ta đã thấy hiện lên một con người ngang trời dọc đất:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ồng Hỉ Vãn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Câu thơ chữ Hán mở đầu toát lên giọng điệu trang trọng, rắn rỏi, khẳng định mạnh mẽ lí tưởng nam nhi mà tác giả tự nguyện hướng theo : trong vòng trời đất, không việc gì không phải là việc của mình. Dĩ nhiên, đây là lí tưởng chung của những người được đào luyện trong môi trường Nho học và Nguyễn Công Trứ không có phát triển gì thêm. Nhắc lại nó, chẳng qua nhà thơ muốn tái hiện trạng thái tràn trề nhiệt huyết của mình buổi quyết định bước vào lồng.
Âm vang trong câu thứ hai là một lời hứa hẹn, một thách thức, với mình và với đời, rằng : Hãy chờ đó mà xem ! về hai chữ vào lồng, có người cho rằng nó thấm vị chua chát, thể hiện sự ý thức về tình trạng trói buộc, tù túng của chốn quan trường. Nhưng theo mạch thơ, lổng ở đây trước hết là lồng phận sự. Đã nói đến phận sự là nói đến cái luật của nó mà người ta không được phép quên. Đã chơi thì phải chấp nhận luật chơi – chấp nhận để vượt qua, và cũng để thể hiện được cái tài, cái giỏi của mình.
Thêm nữa, cứ cho ỉ ồng là sự trói buộc, thì điều nhà thơ muốn nói ở đây hàm chứa niềm kiêu hãnh : dù vào lồng, ta vẫn cứ nên tay ngất ngưởng, vẫn khẳng định được mình như thường, đâu phải hạng xoàng xĩnh vào luồn ra cúi ! Nguyễn Công Trứ quả có “kiêu” khi tự nhận mình là người tài ba, tài trí {tài bộ) và tinh thông võ nghệ {gồm thao lược). Nhưng ông đã “kiêu” một cách hoàn toàn có căn cứ. Trong nửa đầu khổ thứ hai, ông tiếp tục điểm qua những mốc đáng nhớ trên hoạn lộ của mình:
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên…
Thủ khoa, Tham tấn, Tổng đốc, đại tướng, Phủ doãn, cái gì ông làm được cũng thuộc loại “nhất bảng” ! Điệp từ khi (cùng với nó là từ lúc) đã tạo được nhịp điệu dồn dập cho các câu thơ, biến cả đoạn thơ thành cuốn phim quay nhanh, điểm lại công nghiệp phong phú của con người đã sống một cuộc đời thật đáng sống. Bên cạnh đó, nó cũng thể hiện thái độ hào hứng của tác giả khi “tính sổ” cuộc đời, thấy mình có thể “vỗ tay reo” khi nợ tang bồng đã được thanh toán sòng phẳng. Hoàn toàn có thể hiểu được tại sao khi rời bỏ kinh thành về quê, ông lại ngông đến thế:
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Chắc hẳn khi kể lại những việc đã xảy ra trong cái ngày đáng nhớ ấy, Nguyễn Công Trứ vẫn còn lấy làm thú vị hết sức. Ông quả là người biết thưởng thức chính những việc làm trái khoáy nhiều phần khinh bạc của mình. Khinh bạc ở đây là khinh bạc với đời, với những kẻ không đủ gan dứt bỏ chốn quan trường. Dù sao đối với ông, tất cả cũng chỉ là một cuộc chơi. Ồng quý trọng những gì mình đã làm được, nhưng quý trọng không có nghĩa là chỉ biết khư khư ôm lấy chúng.
Cái ông có đâu chỉ chừng ấy, dù đối với bao người, “chừng ấy” cũng đã vô cùng đáng kể rồi. Với từ ngất ngưởng ở câu cuối khổ hai, ta hình dung thật rõ dáng ngồi ngất nghểu, khật khưỡng của tác giả trên lưng con bò cái vàng được “trang sức” bằng đạc ngựa – một dáng ngồi đầy vẻ trêu ngươi, khiêu khích, như muốn giỡn mặt với “cả và” thiên hạ, trước hết là với hàng ngũ đông đúc những quan to, quan bé trong triều. Bỏ lại sau lưng một thời vùng vẫy hào hùng, về nơi cố thổ, nhà thơ để tâm trí hút vào màu mây trắng trên đỉnh non cao :
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Những tưởng khổ thơ đưa người đọc tới miền tâm sự riêng tư, trầm lắng và những cảm nhận hư vô về cuộc đời. Thực ra cũng có một phần, bởi màu mây trắng vốn tồn tại trong văn học như một biểu tượng của cuộc sống ẩn dật thanh cao. Người ta nghĩ nhiều về nó khi muốn hoặc khi đã trút sạch làu làu những ham muốn trần tục. Nhưng trường hợp Nguyễn Công Trứ thì có khác.
Điều ông muốn kể vẫn là sự biểu hiện của cái tôi ngông ngạo vốn có ở “môi trường” mới, không phải trong cái lồng phận sự. Kể ra cũng có lắm chuyện thú vị. Nhà thơ đã khôi hài nói về kiểu nhập vai nửa vời, không triệt để một cách cố ý của mình. Chà chà, tay kiếm cung mà bây giờ cũng nên dạng từ bi cơ đấy ! Anh ta đã thực sự trở thành kẻ ăn chay rồi hay sao? Không phải! Hãy xem cái cách anh đi vãn cảnh chùa thì biết…
Đến nước ấy thì Bụt cũng phải chào thua. Không kể văn học dân gian, có lẽ đây là lần đầu tiên trong văn học viết, ta biết tới một ông Bụt bình dân đến vậy. Nguyễn Công Trứ quả có đủ tài, đủ cái hóm hỉnh để khiến Bụt nếu không đồng loã với mình thì cũng phải bỏ qua cho mình bằng một cái cười xoà.
Đối với Nguyễn Công Trứ, tháo được dây đeo ấn trả lại nhà vua (giải tô) là một điều kiện cần thiết để những con người khác trong ông được dịp cất tiếng nói. Ông rõ ràng rất biết sống cho mình:
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Sống, với Nguyễn Công Trứ là biết coi trọng cái hiện thế, hiện tại, biết thưởng thức, nếm trải những thú vui có trong đời như thú ngoạn cảnh thiên nhiên, chùa chiền, thú hát cô đầu, thú uống rượu và đặc biệt là ái tình. Đã là một tay tài tử, làm sao có thể thờ ơ với tất cả những cái đó ? Mọi sự được mất hãy nên phóng tâm coi nhẹ, đừng “bặm môi bặm miệng” quan trọng hoá vấn đề.
“Khen chê phơi phới ngọn đông phong” trước hết là một sự phớt lờ, bỏ qua những lời đàm tiếu, nhưng sau đó là cảm giác lâng lâng nhẹ nhõm của một kẻ tự do, biết sống vượt lên những tiêu chuẩn đạo đức lỗi thời, gò bó và khắc khổ. Nguyễn Công Trứ tự nhận mình là “Không Phật, không Tiên, không vướng tục”. Khỏi phải nói đến cái tục là cái mà người có học, người đường hoàng không ai muốn, nhưng được như Phật, như Tiên thì tốt chứ, lẽ nào lại không màng?
Thực ra điều này có liên quan tới sự lựa chọn riêng tư, không nhất thiết phải đi đôi với thái độ dị ứng các giá trị khác tồn tại trong đời. Nguyễn Công Trứ thấy mình không giống Phật, Tiên thì ông nói thế (Phật, Tiên gì mà đi chơi chùa lại dẫn cả đoàn con hát lên theo) và ông cũng lấy làm hài lòng vì điều đó. Phật, Tiên là những mẫu hình của một thế giới khác, thế giới siêu nhiên. Họ không biết thưởng thức những lạc thú của cuộc đời.
Còn ta, ta là người sống giữa cuộc đời, dại gì mà chối bỏ những niềm vui đời đem lại ! Giống Phật, giống Tiên mà chẳng giống mình thì phỏng có nghĩa lí gì ? Tuy nhiên, ta cũng không tục, ta đã dấn mình vào cuộc chơi với một ý thức văn hoá, với bản lĩnh của người tin vào tài năng và phẩm cách của mình, ứng xử với đời bằng một tinh thần tự do. Ta khác với những kẻ để mình bị khống chế bởi bản năng vật dục, không biết “chơi” với phong độ tài tử, tài hoa và với một thị hiếu thẩm mĩ tinh vi, sành sỏi.
Có khá nhiều từ láy ngoài từ ngất ngưởng xuất hiện trong hai khổ thơ 3, 4: phau phau, đủng đỉnh, dương dương, phơi phới. Rõ là đoạn thơ chú trọng vào việc miêu tả cảm giác, trạng thái tinh thần của tác giả khi đã thoát khỏi vòng cương toả, khác với đoạn trước nghiêng về kể khái quát những công tích đạt được. Từ kìa cũng gắn liền với sự miêu tả, như muốn bày ra trước độc giả một cảnh tượng thật thích chí.
Nói chung, cả đoạn thơ thấm một ý vị hài hước rất hấp dẫn, cho thấy nhà thơ khá bằng lòng với mình, có tự giễu cợt mình cũng là giễu cợt trên tinh thần tự tin rất mực. Điệp từ khi được dùng kèm với những tiếng trắc, tiếng bằng luân phiên trong câu “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng” ngoài nghĩa liệt kê vốn eó gắn liền với ý niệm về thời gian còn thêm sắc thái biểu cảm rõ nét, diễn tả được cái ngả nghiêng thoải mái của nhà thơ trong những cuộc chơi bất tận.
Thái độ sống, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ lúc đã ra ngoài vòng cương toả có những biểu hiện rất riêng. Nhưng không thể nghĩ rằng ông đã hoàn toàn khác mình trước đó. Thực chất vẫn chỉ có một Nguyễn Công Trứ, rất nhất quán, chỉ có điều, khi làm một hưu quan, ông có nhiều điều kiện hơn để thể hiện sự phóng túng và tư tưởng hành lạc (sống vui, vui sống) của bản thân. Ông hoàn toàn không tự mâu thuẫn khi gộp chung con người hành đạo và con người hành lạc vào một, trong lời tổng kết cuộc đời đầy minh bạch và đượm vẻ hài lòng ở khổ cuối:
Chang Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông !
Sự phóng túng dù được thể hiện ở mức độ cao vẫn không dẫn nhà thơ tới thái độ hư vô chủ nghĩa. Trước sau ông vãn là một nhà nho có tinh thần nhập thế và luôn tâm niệm “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Câu thơ vừa trích không phải đã được viết ra để rào đón, dè chừng, theo như cách hiểu của một số người. Đối với Nguyễn Công Trứ, hành đạo thì cần hiệu quả và hành lạc thì cần “say sưa”, tất cả đều có ý nghĩa. Hành đạo và hành lạc không thể bị đặt vào trong một tương quan loại trừ.
Nhìn chung, Bài ca ngất ngưởng đã khẳng định lí tưởng sống hài hoà giữa cái vì đời và cái vì mình. Bao trùm cả bài thơ là âm điệu khẳng định. Ta không thấy bợn lên ở đây một chút ân hận hay động thái tự vấn nào. Nguyễn Công Trứ đã thể hiện được tài năng của bản thân khi thực hiện lí tưởng trung quân ái quốc, hành đạo cứu đời. Ông đã giữ được bản tính hào mại, phóng túng cả khi vào lổng phận sự và dấn thân trong chốn quan trường.
Ông, khác với nhiều người, đã dứt bỏ chức vị với bao nhiêu cám dỗ một cách nhẹ nhàng, không vướng bận. Ông đã nhập vào các cuộc chơi một cách thoải mái, với tư cách của một kẻ đam mê, dám hết mình. Ông có thể nói mà không thấy ngượng, với mình và với đời : “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”.
Với một con người, khó nhất là cái tự tri. Nguyễn Công Trứ là một kẻ tự tri. Sự thoả mãn của ông được bảo đảm bằng cả một cuộc đời phong phú, bằng sự tự tri. Nó không gây “chối”, ngược lại, tạo được lòng kính trọng ở người đời, ở độc giả. Nói về sự hấp dẫn của ngôn từ thơ ở Bài ca ngất ngưởng, có lẽ không thể bỏ qua việc nhà thơ vận dụng lối nói đậm tính khẩu ngữ. Khi tự xưng thì dùng các đại từ như ông, tay. Khi biểu lộ hồn thơ lai láng thì “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”. Khi buộc phải so sánh thì “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú”,…
Rồi bao nhiêu từ ngữ mang tính chất nôm na, thông tục đã được “điều động” một cách linh hoạt. Đó là vào lồng, tay kiếm cung, một đôi dì, nực cười, phường,… Quả tính chất khẩu ngữ của ngôn từ đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp sống động và gần gũi, phù hợp hoàn toàn với cốt cách con người tác giả, cũng phù hợp với âm hưởng đối thoại mà ông muốn có (không phải đối thoại trực tiếp mà là đối thoại ngầm với những cách sống, kiểu sống khác – tầm thường và hèn kém).
Nhờ nó, ta tiếp nhận bài thơ như tiếp nhận một lời nói, giọng nói trực tiếp. Độc giả hoàn toàn có thể tưởng tượng thấy đi kèm với các câu thơ là ánh mắt giễu cợt, là nụ cười hóm hỉnh hài hước, là dáng vẻ lúc lắc nghênh ngang của một kẻ ung dung bước giữa đường đời.
Thể thơ hát nói là “thể thơ của con người cá nhân và tự do”. Số tiếng không cố định trong câu thơ và số câu không hạn định chặt chẽ trong bài thơ (nhất là với bài thơ hát nói dôi khổ) đã cho phép tác giả phô diễn một cách khoái hoạt nguồn cảm hứng dồi dào của mình.
Không chỉ thế, sự chuyển đổi vần bằng, vần trắc luân phiên trong các câu, các khổ ; sự biến hoá đa dạng trong nhịp ngắt ; sự cho phép pha trộn ngôn từ nửa Nôm nửa Hán ; sự xuất hiện của nhiều từ láy, nhiều điệp từ,… đã đưa lại ấn tượng người làm thơ không gặp phải bất cứ một sự gò bó nào, muốn kể, muốn tả, muốn nghiêm túc, muốn giỡn đùa đều được.
Điều quan trọng là anh có tận dụng được tính phóng khoáng và dân chủ đó của thể loại để diễn tả tâm tình, suy nghĩ của mình hay không. Có thể nói, với thể thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ đã hoàn toàn được là mình. Thể thơ hát nói đã cho văn học Việt Nam một Nguyễn Công Trứ như ta đã biết và ngược lại chính Nguyễn Công Trứ đem lại được cho thể thơ hát nói một vị trí vinh dự trong bảng thể loại văn học của dân tộc.
